DI TÍCH LỊCH SỬ
HUYỆN CẦN GIUỘC
1. Di tich lịch sử Khu vực “Rạch Bà Kiểu”: ở ấp Lũy, xã Phước Lại, huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An.
Là địa điểm ác liệt trong chiến dịch 18 ngày đêm đánh Mỹ của quân dân Phước Lại từ ngày 29 tháng 2 năm Đinh Mùi (1967). Suốt 18 ngày đêm vất vả chịu nhiều đói rét nhưng anh em du kích Phước Lại vẫn bám trụ kiên cường chiến đấu mặc dù chịu nhiều mất mát hy sinh, quân và dân Phước Lại vẫn vững lòng bám đất bám làng. Đây là trận đánh Mỹ đầu tiên của nhân dân Cần Giuộc nói chung, từ đây anh em du kích hiểu được thực chất tinh thần chiến đấu của Mỹ, để từ đó rút ra phương pháp đánh hay nhất. Sau trận chiến này, riêng xã Phước Lại được tuyên dương 5 dũng sĩ diệt Mỹ, trong đó thành tích Lê Chí A nổi bật nhất. Tổng kết cuộc chiến đấu ta tiêu diệt gần 200 tên Mỹ, thu 15 súng, bắn rơi 2 trực thăng.
Chiến dịch 18 ngày đêm đánh Mỹ ở Phước Lại năm 1967 là chiến dịch đầu tiên, mở màn cho phong trào đánh Mỹ của quân và dân Cần Giuộc. Thắng lợi này đã tạo cho Đảng bộ và nhân dân Cần Giuộc có kinh nghiệm thực tế đánh Mỹ, thúc đẩy phong trào trong toàn huyện, góp phần tich cực vào thắng lợi của chiến dịch 45 ngày đêm đánh Mỹ ở vùng Hạ Cần Giuộc 6/1967 và thắng lợi vẻ vang trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử 1975.
2. Di tích lịch sử Khu vực Cầu Kinh – nơi xảy ra trận đánh đầu tiên và ác liệt nhất trong chiến dịch 45 ngày đêm đánh Mỹ ở vùng Hạ Cần giuộc (từ 5/6 đến 20/07/1967): ở ấp 1, xã Phước Vĩnh Tây, huyện Cần Giuộc.
Thời Pháp thuộc những năm đầu TK XX, thực dân Pháp tiến hành đắp một con đường đi qua vùng Hạ Cần Giuộc, chính là hương lộ 12 bây giờ. Đoạn đường ở khu vực Cầu Kinh thường bị sụt lở vì trũng và do một con rạch nhỏ chảy sát bên làm xói mòn chân lộ. Bọn Pháp liền cho đào một đoạn kinh dài hơn 1 km, cách xa cầu kinh cũ 20m về phía đông để thông thoát nước, không cho nước mỗi khi dâng lên dồn ứ lại gần con đường. Trên đoạn kinh đó bà con nông dân bắc một cái cầu (bằng gỗ) để đi lại, và cái tên “Cầu Kinh” xuất hiện từ lúc này. Năm 1992 nhân dân ở khu vực này đã tự quyên gop tiền của để xây dựng một cái cầu đúc thay cho cái cầu bằng gỗ trước đây. Song vẫn gọi là Cầu Kinh như trước.
Ở khu vực Cầu Kinh nơi xảy ra trận đánh đầu tiên và ác liệt nhất cả D5 Nhà Bè và lữ 2 Mỹ trên 1 khu đất rộng 2 ha tại gò nhà ông Tư Phi nơi bọn Mỹ kéo xác đồng bọn của chúng bị chết chất lên trực thăng để chở xác mang đi. Khu vực Cầu Kinh là nơi ghi dấu chiến công chống kẻ thù xâm lược của quân dân miền hạ Cần Giuộc, nó có giá trị chủ yếu về mặt lịch sử.
3. Di tích lịch sử Khu vực ”Ngã ba mũi tàu”: địa điểm tập trung cuộc biểu tình ngày 22 tháng 7 năm 1961 (năm Tân Sửu) của nhân dân huyện Cần Giuộc (ở xã Trường Bình, huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An).
Di tích có tên gọi Ngã ba mũi tàu vì nơi đây là giao điểm giữa liên tỉnh lộ 50 và hương lộ 15 tạo thành một ngã ba. Sau giải phóng 1975 do yêu cầu phát triển kinh tế của địa phương, khu vực ngã ba được mở rộng thêm 2 con lộ mới cắt tại giao điểm một hướng về Trị Yên (Tân Kim), một hướng về ấp Phước Hòa (Tường Bình) tạo thành một ngã năm. Nhưng tên gọi Ngã ba mũi tàu ngày nay nhân dân vẫn gọi như cũ.
Cuộc biểu tình ngày 22 tháng 7 năm 1961 (năm Tân Sửu) tức ngày 1/9/1961 ở Cần Giuộc là cuộc đấu tranh chính trị lớn nhất huyện. Lần đầu tiên 20.000 nhân dân đã biểu dương sức mạnh của mình, trong 2 ngày đêm trên toàn huyện gây cho địch hoang mang dao động cuối cùng phải nhượng bộ, tên quận trưởng phải đích thân xin lỗi đồng bào và hứa chấp nhận các yêu sách là “chấm dứt việc bắn phá, dồn dân lập ấp, dỡ nhà, bắt gà, vịt để nhân dân tự do yên ổn làm ăn”.
Thắng lợi của cuộc biểu tình đã chứng minh được sự chỉ đạo đúng đắn, tinh thần sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam mà tiêu biểu là Đảng bộ Cần Giuộc trong việc tập hợp mọi lực lượng cách mạng kết hợp linh hoạt giữa đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang phá vỡ âm mưu “dồn dân lập ấp” của Mỹ - Diệm.
4. Di tích lịch sử khu vực sân banh Cần Giuộc – (thị trấn Cần Giuộc, huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An).
Nơi đây ghi lại sự kiện ngày 4/5/1941 thực dân pháp xử bắn đồng chí Nguyễn Thị Bảy và các chiến sĩ yêu nước khác trong cuộc khởi nghĩa ở Nam kỳ Cần Giuộc, các đồng chí bị xử tử gồm: chính giữa là đồng chí Nguyễn Thị Bảy, bên phải là 2 đồng chí Đang và Châu, bên trái là 2 đồng chí Trần Chí và Mười Thiện.
Phút sắp lìa đời chị cùng các chiến sĩ hô vang khẩu hiệu:
“Đả đảo đế quốc Pháp
Đảng Cộng sản Đông Dương muôn năm
Việt Nam độc lập muôn năm!”
5. Di tích lịch sử Khu vực Cầu Tre – địa điểm ghi dấu chiến công của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược (cuối tháng 10 – A6L năm 1967) ở ấp Thạnh Trung, xã Phước Vĩnh Đông, huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An.
Tại khu vực này cuối tháng 10 A6L (năm 1967), Đại hội 1 và Đại hội 3 của tiểu đoàn 5 Nhà Bè đã tổ chức trận chống càn tiêu diệt một đại đội địch và thu nhiều vũ khí. Với trận thắng này, ta đã lấy lại thế chủ động trên chiến trường và góp phần tích cực vào thắng lợi của cuộc tổng tiến công và nổi dậy tết Mậu Thân.
Tên gọi Cầu Tre bắt nguồn từ hình ảnh của một cây cầu được làm bằng tre. Từ rất lâu, tại con rạch nối liền với sông Kinh Hàn có một cây cầu tre được bắc qua để cho người dân 2 bên rạch tiện qua lại. Dần dần cây cầu tre ấy trở thành tên gọi con rạch – rạch Cầu Tre và tên riêng cho khu vực dân cư xung quanh – khu vực Cầu Tre. Cây cầu tre hiện không còn nhưng tên gọi ấy vẫn lưu truyền cho đến nay. Khu vực di tích Cầu Tre hiện nay thuộc ấp Thạnh Trung, xã Phước Vĩnh Đông, huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An.
6. Di tích lịch sử “Khu vực Gò Sáu Ngọc” ở ấp Phước Thuận, xã Phước Lâm, huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An.
Là nơi thành lập chi bộ Đảng đầu tiên của huyện Cần giuộc (năm 1930).
Tháng 4 năm 1930 đồng chí Hồ Văn Long và một số đồng chí từ Bà Điểm đến Phước Lâm hoạt động đã bắt liên lạc với gia đình ông Bùi Bổn Phận (nhà ở trên khu gò, sau để lại cho bà Trang Thị Ngọc, địa phương quen gọi là “gò Sáu Ngọc”) và có thời gian ở lại đây để hoạt động cách mạng. Sau một thời gian tuyên truyền, vận động thử thách Chi bộ Đảng đầu tiên ở Phước Lâm đã ra đời vào năm 1930 do đ/c Phận làm Bí thư với một số đ/c như: Bùi Bổn Phận, Lê Minh Hào, Trương Văn Do và một số người khác …
Chi bộ Đảng ra đời đa đánh một bước ngoặc quan trọng đối với phong trào đấu tranh của nhân dân địa phương. Ngay sau khi thành lập Chi bộ đã lãnh đạo cuộc đấu tranh như: đốt phá nhà hội Thuận Thành (ngày 1/5/1930) phối hợp với các địa phương khác khắp vùng Cần Đước – Cần Giuộc tham gia cuộc biểu tình ở Gò Đen năm 1930. Từ đây người dân và phong trào cách mạng ở Phước Lâm đã bước lên một bước mới đã có người lãnh đạo để từng bước đấu tranh giành quyền sống thật sự của con người.
7. Di tích lịch sử “Khu lưu niệm Nguyễn Thái Bình” ở ấp Trị Yên, xã Tân Kim, huyện Cần Giuộc là quê hương và cũng là đại điểm tưởng nhớ một tri thức trẻ, một nhân vật tích cực trong phong trào chống Mỹ - Ngụy của người Việt ngay trên đất Mỹ, một biểu tượng về lòng yêu nước của sinh viên Việt Nam trong mắt người yêu chuộng hòa bình những năm đế quốc Mỹ xâm lược Việt Nam.
Nguyễn Thái Bình là con trai lớn trong một gia đình tư chức nghèo đông con. Cha là Nguyễn Văn Hai, mẹ là Lê Thị Anh. Anh ra đời tại nhà bảo sanh Cần Giuộc – xã Trường Bình (nay thuộc thị trấn Cần Giuộc – tỉnh Long An) vào đêm 14/1/1948. Tiếng khóc chào đời của Nguyễn Thái Bình đã hòa lẫn vào tiếng súng nổ vang rền của một trận chiến đấu giữa lực lượng kháng chiến và quân Pháp ngay cạnh nhà bảo sanh Cần Giuộc vào đêm ấy. Chiến tranh và sự nghèo khổ mà gia đình và bản thân anh đã trải qua cũng như chứng kiến … đã hướng anh có suy nghĩ về quê hương đồng bào sau này khi đã lớn khôn.
Di tích “Khu lưu niệm Nguyễn Thái Bình” là một di tích có giá trị lớn về mặt lịch sử: Là quê hương và cũng là địa điểm để tưởng nhớ một tri thức trẻ Việt Nam dám đấu tranh chống Mỹ ngay trong lòng nước Mỹ những năm bọn đế quốc hung tàn này gây chiến tranh ở Việt Nam. Anh là biểu tượng đẹp về người thanh niên yêu nước biết sống ngẩng cao đầu và chết trong sự tiếc thương của cả dân tộc. Nguyễn Thái Bình đã sống xứng đáng với lương tâm và danh dự của tuổi thanh niên. Với cuộc đời ngắn ngủi của mình, anh đã để lại một tấm gương sáng về tinh thần yêu nước và khí phách anh hùng cho tuổi trẻ Việt Nam.
8. Di tích lịch sử Đình Chánh Tân Kim ở ấp Tân Xuân, xã Tân Kim, huyện Cần Giuộc là một di tích lịch sử gắn liền với việc đi khai hoang mở đất lập làng của ông Tiền hiền họ Mai (Mai Văn Giã) từ miền Trung vào tận miền đồng bằng sông Cửu Long này. Công lao to lớn ấy được dân làng ghi nhớ và theo truyền thống, ông được thờ trong chánh Điện của đình với bài vị “Tiền hiền khai khẩn”, hàng năm được dân làng tổ chức cúng vào dịp lễ Kỳ Yên.
Có thể gọi đình Chánh Tân Kim là một ngôi cổ đình vì nó đã tồn tại tính đến nay là 136 năm kể từ năm xây dựng 1860. Tuy đã có trùng tu ở Võ ca và Chánh điện nhưng vẫn còn giữ được yếu tố kín ở ngôi hậu sở. Và những hiện vật bài trí ở trong đình như câu đối, hoành phi, khánh thờ, linh vị cũng có niên đại trên dưới 100 năm.
Đình là một trong những thành tố của thiết chế văn hóa làng xã truyền thống. Tuy đối tượng thờ phụng trong đình có nhiều thành phần khá phức tạp nhưng đối tượng quan trọng vẫn là Thành Hoàng năm tháng dày thêm và ý nghĩa lịch sử của ngôi đình cũng thêm nhiều thêm đẹp. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, nơi đây đã trở thành mái nhà chung chở che bảo vệ cho cán bộ đi về trú ẩn, hoạt động bí mật, là điểm hội họp và trao đổi những thông tin mật hiệu liên tục với những vùng căn cứ lân cận.
9. Di tích lịch sử văn hóa chùa Tôn Thạnh gắn liền sự tích ông Tăng Ngộ (ở ấp Thanh Ba, xã Mỹ Lộc)
Nằm cạnh tỉnh lộ 835 thuộc địa phận xã Mỹ Lộc, huyện Cần Giuộc là một ngôi chùa đã nổi tiếng từ lâu trong lịch sử văn học: Chùa Tôn Thạnh – một di tích lịch sử đã được Bộ Văn hóa – Thông tin xếp hạng cấp quốc gia ngày 27/11/1997 (theo quyết định số 2890-VH/QĐ).
Chùa Tôn Thạnh ban đầu có tên là chùa Lan Nhã, được thiền sư Viên Ngộ sáng lập năm 1808. Thiền sư có thế danh là Nguyễn Ngọc Dót, con của ông Nguyễn Ngọc Bình và bà Trà Thị Huệ ở làng Thanh Ba thuộc tổng Phước Điền Trung, huyện Phước Lộc. Năm Gia Long thứ bảy (1808), sư Viên Ngộ đến làng Thanh Ba (nay thuộc xã Mỹ Lộc) cất chùa Lan Nhã – đó chính là chùa Tôn Thạnh hiện nay. Theo Đại Nam Nhất Thống Chí, đây là ngôi chùa “rường cột tráng lệ, vàng son huy hoàng” nổi tiếng ở đất Gia Định xưa. Tưởng nhớ đến một thiền sư suốt đời hi sinh thân mình để đem lại điều lành cho chúng sinh, nhân dân đã gọi chùa Tôn Thạnh là chùa Tăng Ngộ hay chùa Ông Ngộ.
Mười sáu năm sau, khi thiền sư Viên Ngộ viên tịch, chùa Tôn Thạnh đã đi vào lịch sử nước nhà với bài Văn Tế Nghĩa Sĩ Cần Giuộc của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu. Trong thời gian ba năm (1859 – 1861) nhà chí sĩ yêu nước Nguyễn Đình Chiểu đã về đất Thanh Ba, lấy chùa Tôn Thạnh làm nơi dạy học, làm thơ và làm thuốc.Trong trận tập kích đồn Tây Dương tại chợ Trường Bình đêm rằm tháng 11 năm Tân Dậu, một trong ba cánh nghĩa quân đã xuất phát từ chùa Tôn Thạnh đốt nhà dạy đạo, chém rơi đầu quan Hai Phú Lang Sa. Cảm khoái trước tấm lòng vị nghĩa của những người “Dân ấp, dân lân”, nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu đã sáng tác bài Văn tế Nghĩa sĩ Cần Giuộc nổi tiếng tại chùa Tôn Thạnh.
10. Di tích khảo cổ học Rạch Núi (ấp Tây, xã Đông Thạnh, huyện Cần giuộc, tỉnh Long An)
Là một gò đất rộng khoảnh một hecta, đường kính trung bình 100m, cao hơn 6m so với mặt đất tự nhiên, xung quanh có rạch bao bọc. Trên mặt gò có nhiều cây cổ thụ, bao quanh gò là rạch núi là một con rạch nhỏ nhánh của sông Cần giuộc (sông Rạch Cát). Do địa thế cao giữa khu vực đồng bằng nên còn được gọi theo dân gian là gò Núi Đất (hay thổ sơn).
Năm 1867 (Đinh Mão) có vị sư Nguyễn Quới (thường gọi là thầy Rau) trên đường vân du đến đây, thấy địa thế tốt nên ở lại và xây dựng chùa trên đỉnh gò để tu hành. Tên hiệu của chùa là Linh Sơn Tự hay còn được gọi là Chùa Núi.
Về mặt tiền sử học, di chỉ cư trú Rạch Núi với bề dầy tầng văn hóa gần 5m chứng minh rằng sự có mặt từ rất sớm của cư dân bản địa trên đồng bằng sông Cửu Long, ổn định cuộc sống và phát triển khá lâu dài, sinh sống bằng cách khai thác các sản vật tự nhiên từ rừng, từ biển và dựa vào các nguyên liệu trên để chế tác công cụ lao động, săn bắt và qua các sưu tập hiện vật phong phú về chất liệu và loại hình ở đây đã gợi mở cho các nhà khảo cổ học một ý tưởng về một “Văn hóa Rạch Núi” (Phạm Văn Kỉnh năm 1978) hay mang tính chất văn hóa miền Đông Nam Bộ trong thời đại đá mới – đồng (Phạm Quang Sơn 1978), đặc biệt di chỉ Rạch Núi mang nhiều đặc điểm tương đồng với di chỉ An Sơn (Đức Hòa Long An) như: có tầng văn hóa dầy, xen lẫn nhiều lớp than tro, nhiều xương cốt động vật và vỏ sò ốc biển, có kỹ nghệ chế tác công cụ bằng xương, sừng động vật, có truyền thống sử dụng cà ràng … Ngoài ra, dạng công cụ bằng đá không có không có vai tương tự như ở Rạch Núi cũng đã xuất hiện trong tầng hỏa ở lớp trên của An Sơn … cùng thể hiện truyền thống văn hóa Đông Nam Bộ với đặc điểm địa phương của vùng đầm lầy ven biển.
Di chỉ Rạch Núi, với tầng văn hóa quan trọng và có nhiều di vật quí hiếm thuộc thời tiền sử mang ý nghĩa lớn lao trong việc đóng góp cho lịch sử địa phương nói riêng và đất nước nói chung.
11. Di tích kiến trúc nghệ thuật “Miếu Bà Ngũ Hành” (xã Long Thượng, huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An).
Di tích “Miếu Bà Ngũ Hành” tọa lạc tại chợ Long Thượng, xã Long Thượng, huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An.
Tên gọi di tích là một thiết chế văn hóa tín ngưỡng dân gian, miếu Bà Ngũ Hành thờ bà Ngũ Hành Nương Nương: vị thần được thờ rất nhiều ở các đình Nam Bộ giúp cho mưa thuận gió hòa, thịnh vượng. Theo tân từ điển Việt Nam – Nhà xuất bản TP. HCM 1991, Miếu là cái đền thờ, Ngũ hành là 5 yếu tố vật chất: kim, mộc, thủy, hỏa, thổ luôn vận động, chuyển dịch. Theo thuyết âm dương ngũ hành, 5 yếu tố trên thuộc âm nên trong dân gian gọi là Bà. Mang kiến trúc của một ngôi đình làng, miếu Bà Ngũ Hành từ khi hình thành đến nay đã là nhu cầu tinh thần của nhân dân ở Cần Giuộc và xung quanh với lễ hội truyền thống mang tên: Lễ vía Ngũ hành Nương Nương, thu hút hàng chục ngàn người.
12. Di tích lịch sử văn hóa “Chùa Thới Bình” tọa lạc tại ngã ba vàm Rạch Dừa thuộc ấp Phước Thới, xã Phước Lại, huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An. Đây là một trong những ngôi cổ tự ở Long An xuất hiện cùng với quá trình Nam tiến đầy gian khổ của lưu dân người Việt với lòng mộ đạo của phật tử từ một thảo am ban đầu chùa đã phát triển thành một Đại Già lam. Là địa điểm lưu niệm một cao tăng trong lịch sử Phật Giáo Việt Nam: Quốc sư Thích Từ Nhẫn. Chùa Thới Bình còn là một trong những ngôi tam bảo cuối cùng của Việt Nam được triều đình phong kiến sắc tứ …
Chùa Thới Bình bản thân nó thể hiện những giá trị văn hóa phong phú đặc biệt là văn hóa Phật giáo nhưng vẫn đậm đà bản sắc dân tộc.
13. Di tích chùa Thạnh Hòa tọa lạc tại ấp Tây, xã Đông Thạnh, huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An theo lời thượng tọa Thiện Xuân Hồng Khoa người trụ trì đời thứ 5 cho biết tên chùa là sự kết hợp giữa 2 chữ Thạnh và Hòa.
Thạnh: chữ được lấy ra từ tên gọi của xã Đông Thạnh.
Hòa: chữ được lấy ra từ tên gọi của hệ phái Lục Hòa Tăng (hệ phái của chùa)
Như vậy tên Thạnh Hòa được cấu tạo bởi sự kết hợp giữa địa danh nơi chùa được xây dựng và tên gọi của một hệ phái Phật giáo lúc bấy giờ.
Kiến trúc chùa Thạnh Hòa là một kiểu thức truyền thống rất đặc trưng cho kiểu kiến trúc đền chùa Nam bộ vào thế kỷ XIX. Với kế cấu “đâm trính cột kê” tạo dáng vuông tứ tượng ở giữa, thể hiện vũ trụ quan và nhân sinh quan Đông phương. Phần kiến trúc phụ ở Đông lang và Tây lang với kiểu thức “trính xuyên lãng” là kết cấu truyền thống có nhiều ưu điểm tiêu biểu cho kiến trúc dân dụng nàh ở Nam bộ vào thế kỷ XIX – XX.
Về nghệ thuật trrang trí, điêu khắc tại chùa Thạnh Hòa thể hiện trên hoành phi, bao lam, câu đối, tượng thờ nói lên sự tinh xảo của bàn tay nghệ thuật nhân xưa từ bố cục đề tài xử lý kỹ thuật. Đây là một phần di sản văn hóa Phật giáo được lưu giữ qua nhiều thế hệ ở đại phương.
* Đại Già Lam: Phật quan công
Chùa Thạnh Hòa ngoài giá trị lịch sử về niên đại tạo dựng còn có ý nghĩa qua các pho tượng cổ được thờ phượng mang phong cách nghệ thuật điêu khắc truyền thống qua các thế kỉ XVIII, XIX cũng như ở giai đoạn muộn hơn.
Các hoành phi, câu đối tại nhiều gian trong chùa ngoài giá trị điêu khắc mỹ thuật, nội dung còn thể hiện trình độ uyên thâm về phật pháp của các đại sư. Đặc biệt hiện nay các chùa còn lưu giữ các sách chép tay chữ Hán: “Trai đàng Phát Nguyện Văn” và một số kinh tụng. Đó là những tài liệu quý cho công tác nghiên cứu cổ văn Hán tự và văn hóa Phật giáo Nam bộ.
Đây còn là nơi lưu niệm nhà sư Hồng Thanh – Thiện Thới – nhà sư trẻ tuổi, tài danh đã để lại dấu son trong lịch sử phát triển của chùa Thạnh Hòa và cả Phật giáo Nam bộ.
Chùa Thạnh Hòa là một công trình kiến trúc cổ, phản ánh những giá trị lịch sử văn hóa truyền thống.
- Hết -